Đậu bắp làm thuốc giảm đau, trị đau đo xuất huyết

Kết quả: 5.0/5 - (2 phiếu)

Đậu bắp làm thuốc giảm đau, trị đau đo xuất huyết

Ðậu bắp, Bụp bắp hay Mướp tây - Abelmoschus esculentus (L.,) Moench, thuộc họ Bông -
Malvaceae.

Mô tả đậu bắp

Cây thảo lớn, mọc đứng, cao 1,8-2,5m. Thân dày, khoẻ, có lông ở các phần trên. Lá
rộng, chia thuỳ chân vịt; thường có 7 thuỳ có răng không đều và có kích thước thay đổi; cuống lá dài.
Cuống hoa ở nách lá, dài 1-3cm. Lá bắc con 8-12 cái hình dải, có lông rậm và sớm rụng. Ðài hình sao,
có 5 thuỳ xẻ đến phân nửa. Cánh hoa vàng hay hơi vàng, có chấm tía ở gốc. Quả nang có góc, dài 8-
15cm, nhọn, hình trứng ngọn giáo đến trụ - nón và nhọn dài ở đầu.
Cây ra hoa vào khoảng tháng 5 đến tháng 9.

Bộ phận dùng đậu bắp

Toàn cây - Herba Abelmoschi Esculenti.
Nơi sống và thu hái: Gốc ở Ấn Độ, được trồng để lấy quả non làm
rau ăn. Thường được trồng nhiều ở các tỉnh phía Nam, hiện nay đang phát
triển trồng ở một số tỉnh phía Bắc. Có thể thu hái toàn cây quanh năm,
thường dùng tươi.

Thành phần hoá học đậu bắp

Quả giàu pectin và chất nhầy, cũng rất giàu
về sắt và calcium. Quả tươi chứa vitamin A 740 đơn vị, thiamin, riboflavin,
acid ascorbic và niacin. Lá và thân chứa iodin. Hạt chứa một chất dầu ăn
được (16-22%) màu vàng xanh và mùi dễ chịu, chứa palmitin và stearin.
Hoa chứa 2 sắc tố flavonol; gossypetin và quercetin.

Đậu bắp làm thuốc giảm đau, trị đau đo xuất huyết

Hình ảnh; đậu bắp

Tính vị, tác dụng đậu bắp

Toàn cây có mùi thơm của Ðinh hương Quả hạt,
lá đều có tác dụng làm dịu, làm nhầy, lợi tiểu. Hạt có tác dụng kích thích, trợ tim và chống co thắt;
nước hãm hạt rang lên có tác dụng làm ra mồ hôi.

 

mua cây kim thất  chỗ nào tại tphcm

Công dụng, chỉ định và phối hợp đậu bắp

Quả xanh cắt ra từng miếng, đun nóng trong canh hay nước

chấm có chất nhầy thoát ra làm thức ăn đặc và có vị chua. Hạt dùng để ăn. Khô dầu dùng làm thức ăn
cho gia súc, hạt khô và rang thật kỹ được dùng thay cà phê. Dịch lá tươi giã nát dùng điều trị bệnh tăng
tiết bã nhờn của da đầu và dùng đắp nhọt.
ở Malaixia, người ta dùng các bộ phận của cây làm thuốc giảm đau trong bệnh lậu và bệnh
khó đái. Ở Ấn Độ, quả chưa chín dùng làm thuốc sắc uống trị đau do xuất huyết, đái nóng, đái khó vì
lậu; chất nhầy từ quả và hạt dùng đắp trị bệnh lậu. Lá dùng làm thuốc đắp dịu. Ở Thái Lan, quả khô
dùng làm thuốc điều trị loét trong cơ quan tiêu hoá.