Dây táo được dùng trong việc điều trị bệnh lao phổi

Kết quả: 5.0/5 - (2 phiếu)

Dây táo,  Dây đông cầu  - Anamirta  cocculus (L.)  Wight  et  Arn.,  thuộc  họ  Tiết  dê  - Menispermaceae. 

Mô tả cây Dây táo :

  • Dây leo to, rộng 10cm ở gốc, có mủ trắng; vỏ nứt, có bầu.
  • Lá nguyên, dạng tim, không lông, có 5-7 gân chính. 
  • Cụm hoa chuỳ kép ở thân già dài 40-50cm.
  • Hoa nhỏ, đơn tính, thơm. Hoa đực có 6 lá đài, 3 cánh hoa, 20-30 nhị. Hoa cái có 4-5 lá noãn.
  • Quả hạch tròn, hơi dẹp, to 1-2 cm, màu đỏ. 
  • Mùa hoa tháng 3-8, quả tháng 6-10. 
  • Bộ phận dùng: Rễ - Radix Anamirtae. 
Dây táo được dùng trong việc điều trị bệnh lao phổi
Dây táo được dùng trong việc điều trị bệnh lao phổi

Nơi  sống và  thu hái cây Dây táo :

  • Cây của vùng Ấn Độ  - Malaixia, mọc ở  rừng và ven rừng, nhiều nơi từ Nghệ An tới Lâm Đồng, Tây Ninh. Có thể thu hái các bộ phận của cây quanh năm. 
  • Thành  phần  hoá  học: Trong  cây  có  các  alcaloid  picrotoxin,  cocculin, anamirtin. Vỏ quả  chứa  các  alcaloid menispermin và paramenispermin;  cả hai đều không có hoạt tính làm thuốc; độ độc do có picrotoxin. Hạt chứa một chất dầu màu vàng  (50%)  gồm  có  stearin và một  chất kết  tinh không  có N  là picrotoxin  (1-1,5%)  rất đắng,  ít  tan trong nước, tan trong rượu và các dung dịch kiềm. 
  • Tính vị, tác dụng: Vỏ quả không mùi nhưng vị chát; thịt quả có vị cay; nhân hạt rất đắng do chất picrotoxin. Chất này rất độc đối với các loài động vật có xương sống; nó tác dụng trên hành tuỷ, não, tuỷ sống và sau cùng là đến tim. Liều chí tử vào khoảng 2,5g. Nó cũng độc với các loài có máu lạnh, nên được dùng để duốc cá (vài quả là đủ) song cá bắt được có độc, nên khi ăn, cần vứt bỏ ruột cá đi. 

Công dụng, chỉ định và phối hợp:

  • Cây và quả được dùng ở Ấn Độ, Malaixia và cả ở Việt Nam để duốc cá. 
  • Ở Ấn Độ, hạt được dùng trong việc điều trị bệnh lao phổi; thuốc mỡ từ quả hạch dùng để trừ sâu bọ và chữa các bệnh ngoài da và da đầu. 
  • Hạt được dùng ở Philippin cũng như ở Anh để diệt chấy rận. Thông thường, quả tán thành bột có thể sử dụng với liều thấp (0,5-4mg) để chữa chứng múa giật, nhưng chủ yếu làm thuốc giải độc khi bị ngộ độc cấp tính bởi các barbituric (thuốc ngủ) là những chất gây giảm áp thần kinh với liều 0,25g. Rễ được dùng ở Philippin làm thuốc chữa sốt, khó tiêu và làm thuốc điều kinh. 
 

Dây táo được dùng trong việc điều trị bệnh lao phổi