Cỏ cứt lợn trị rong kinh phự nữ sau đẻ, chữa viêm xoang hay viêm tai

Kết quả: 4.3/5 - (3 phiếu)

Cỏ cứt lợn, Cỏ hôi, Cây bù xích - Ageratum conyzoides L., thuộc họ Cúc - Asteraceae.

Mô tả cỏ cứt lợn

Cây thảo mọc hằng năm, cao chừng 25-50cm. Lá mọc đối, hình trứng, mép có răng cưa
tròn. Toàn thân và lá đều có lông. Hoa nhỏ, màu tím hay xanh trắng, xếp thành
đầu, các đầu này lại tập hợp thành ngù. Quả bế có ba sống dọc, màu đen.

Bộ phận dùng cỏ cứt lợn

Phần cây trên mặt đất - Herba Agerati.

Nơi sống và thu hái cỏ cứt lợn

Cây của nhiệt đới châu Mỹ, phát tán tự nhiên vào
nước ta, mọc hoang dại khắp nơi. Thu hái toàn cây bỏ rễ, rửa sạch, dùng tươi hay
phơi khô, nhưng thường hay dùng tươi.

Thành phần hoá học cỏ cứt lợn

Toàn cây chứa tinh dầu (0,16% so với dược liệu
khô). Lá và hoa chứa 0,02% tinh dầu với mùi nồng khó chịu, tinh dầu này chứa
phenol (eugenol) 5% một phenol ester mùi dễ chịu. Thành phần chủ yếu của tinh
dầu là g-cadinen, caryo-phyllen, ageratocromen (1), demethoxy-ageratocromen
và một số thành phần khác. Lá chứa stigmast 7-en-3-02, quercetin, kaempferol, acid fumaric, acid cafeic.
Cây cứt lợn ở Việt Nam chứa 0,7-2% tinh dầu, carotenoid, ít phytosterol, tanin, đường khử, saponin, hợp
chất uronic. Hàm lượng saponin thô trong thân và lá (tính theo dược liệu khô kiệt) là 4,7%. Tinh dầu cây
cứt lợn hơi sánh đặc, màu vàng nhạt đến vàng nghệ, mùi thơm dễ chịu có thành phần chủ yếu là
ageratocromen và demethoxyageratocromen.

 

Nơi cung cấp cây tơm trơng ở tphcm

Tính vị, tác dụng cỏ cứt lợn

Cây cứt lợn có vị hơi đắng, tính mát, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, tiêu
sưng và cầm máu. Cành lá vò ra có mùi hôi gây nôn.

Cỏ cứt lợn trị rong kinh phự nữ sau đẻ, chữa viêm xoang hay viêm tai

Hình ảnh: cỏ Cứt lợn

Công dụng, chỉ định và phối hợp của cỏ cứt lợn

Thường được chỉ định dùng làm thuốc chống viêm, chống phù
nề, chống dị ứng trong các trường hợp: 1. Sổ mũi, viêm xoang mũi, dị ứng cấp và mạn; 2. Chảy máu
ngoài do chấn thương, bị thương sưng đau; 3. Mụn nhọt, ngứa lở, eczema. Liều dùng 15-30g cây khô sắc
nước uống, hoặc dùng cây tươi giã lấy nước nhỏ. Cũng dùng cây tươi giã đắp vết thương chảy máu, mụn
nhọt, eczema, hoặc nấu nước tắm chữa ghẻ, chốc đầu của trẻ em.
Người ta còn dùng Cỏ cứt lợn chữa rong huyết sau khi sinh đẻ, dùng phối hợp với bồ kết nấu
nước gội đầu cho thơm và sạch gầu, trơn tóc. Ở Ấn Ðộ, người ta dùng nước ép rễ cây để chữa bệnh sỏi
thận. Lá làm thuốc săn da, dùng chữa các vết đứt, vết thương và dùng đắp chữa sốt rét.

Ðơn thuốc:
1. Chữa phụ nữ rong kinh sau khi đẻ: dùng 30-50g lá hoa Cỏ cứt lợn tươi giã nhỏ, chế thêm
nước, vắt lấy nước cốt uống.
2. Chữa viêm xoang dị ứng hay viêm tai: cũng giã lá hoa tươi vắt lấy nước, tẩm bông bôi vào
mũi bên đau hoặc ngoáy trong lỗ tai. Cũng có thể dùng cành lá khô sắc nước xông mũi và uống.
Nhiều bệnh viện đã sử dụng các chế phẩm của Cỏ cứt lợn để điều trị các chứng viêm xoang mũi
mạn tính và dị ứng, có kết quả tốt, không gây tác dụng phụ gì đối với cơ thể người bệnh.

Cỏ cứt lợn trị rong kinh phự nữ sau đẻ, chữa viêm xoang hay viêm tai